Đường dẫn truy cập

Biển Đông và Hòa bình


Cảnh sát biển Việt Nam tuần tra, bảo vệ chủ quyền lãnh hải trên Biển Đông. (Ảnh Cảnh sát biển Việt Nam chụp từ màn hình Dân Việt)
Cảnh sát biển Việt Nam tuần tra, bảo vệ chủ quyền lãnh hải trên Biển Đông. (Ảnh Cảnh sát biển Việt Nam chụp từ màn hình Dân Việt)

Nguyễn Viết Công

Biển Đông lại dậy sóng và làm nóng mặt báo. Các tin tức cho thấy Bắc Kinh liên tục gây căng thẳng. Điều tàu sân bay Liêu Ninh tập trận ở biển Đông, đâm chìm tàu cá ngư dân Quảng Ngãi, thành lập khu Tây Sa, Nam Sa và mới nhất là lệnh cấm đánh bắt cá thường niên ở biển Đông một cách ngang ngược. Việt Nam muốn hòa bình. Trung Quốc cũng muốn hòa bình và… biển đảo! Cái khó của người Việt là phải gìn giữ cả hai.

Trong chuỗi mắt xích Nhật Bản, Philippines và Việt Nam thì Việt Nam là mắt xích yếu nhất. Thân cô, thế cô, không một nơi nương tựa thực sự. Dĩ nhiên Trung Quốc thấy rõ và đã lựa chọn mắt xích này.

Nếu để ý chúng ta sẽ thấy mỗi lần các nước trên thế giới bị cuốn vào một sự kiện nghiêm trọng nào đó thì y như rằng gã hàng xóm gian ngoan lại giở trò.

Ngược dòng thời gian quay trở về năm 2014, Bắc Kinh đã chộp được một cơ hội không thể tốt hơn khi Nga ngang nhiên sáp nhập Crimea vào lãnh thổ của mình và đang chịu sự trừng phạt của Mỹ và châu Âu, buộc phải nhìn về Trung Quốc như là chỗ dựa cuối cùng. Ngay lập tức giàn khoan HD-981 ngang nhiên vào vịnh Bắc bộ. Và khi biển Đông nóng lên, Nga im lặng rồi cũng nói đôi lời vu vơ vô thưởng vô phạt cho qua chuyện. Đồng minh thân thiết năm xưa nay đang phải lo cho thân mình và ve vuốt Bắc Kinh ngõ hầu vượt qua cơn bĩ cực.

Trong khi đó, những khác biệt về chính trị với Việt Nam đã ngăn Mỹ có những phản ứng mạnh mẽ hơn là sự bày tỏ quan ngại, phản đối mọi hành vi hung hăng, khiêu khích. Mặt khác, Mỹ có quá nhiều lợi ích ở thị trường Trung Quốc rộng lớn còn Việt Nam thì lại chẳng có một vai trò gì rõ ràng trong quan hệ với Hoa Kỳ.

Sự kiện giàn khoan HD 981 tiến sâu vào vịnh Bắc bộ thực sự là cú sốc đối với Hà Nội. Trong khi Trung Quốc toan tính đã từ lâu, họ như cọp luôn rình rập chờ cơ hội, thì có vẻ như Việt Nam hơi bị bất ngờ. Dường như các nhà lãnh đạo của nước này có ảo tưởng rằng Trung Quốc sẽ thiện chí với Việt Nam hơn Philippines và hy vọng sự chân thành của mình được đền đáp (Việt Nam chân thành đến độ quên mất bài học nỏ thần, phái hai tàu hộ vệ tên lửa hiện đại bậc nhất là Lý Thái Tổ và Đinh Tiên Hoàng thăm Trung Quốc, nghe đâu bất chấp sự phản đối của nhiều tướng lĩnh). Việc Ngoại trưởng Phạm Bình Minh bày tỏ sự sứt mẻ niềm tin minh chứng cho việc này.

Trung Quốc ngày một leo thang, số lượng tàu quân sự cứ tăng dần. Tin tức thật giả về động thái điều binh ở biên giới Trung – Việt của Bắc Kinh chủ yếu nhằm rung cây nhát khỉ là chính. Trên bộ ranh giới đã phân, cột mốc đã cắm. Nhiều người tin rằng khả năng nóng ở đâu sẽ động binh ở đó, vả lại, động binh ở vùng tranh chấp dù sao cũng ít trắng trợn hơn. Việc xua quân qua biên giới “dạy” cho Việt Nam một bài học nữa để rồi lại rút quân về mà chẳng thu lượm được gì không phải là điều Trung Quốc muốn. Động binh và có chút gì đó làm chiến lợi phẩm là điều Bắc Kinh toan tính. Thế thì biển Đông mà cụ thể là các đảo Trường Sa của Việt Nam sẽ là mục tiêu. Nóng từ giàn khoan HD-981 mà lan sang Trường Sa thì quả là rất gần. May thay sóng gió rồi cũng đi qua.

Nay thì đại dịch Covid-19. Trong khi cả thế giới đang rối bời với dịch bệnh Bắc Kinh lập tức đục nước thả câu!

Ở bên cạnh một kẻ bất lương, luôn rắp tâm gây hấn Việt Nam cần phải làm gì? Mỹ không phải là đồng minh, lợi ích của họ ở đất nước này quá nhỏ bé. Còn Nga, như trên đã nói, có cũng như không. Nếu như năm 1979, Bắc Kinh phải vội vàng rút quân khỏi Việt Nam bởi độ 1 triệu quân Xô viết đã được triển khai bên kia sông Amur* thì mấy năm nay Nga Trung đang thuở mặn nồng (cho dù là mặn nồng có tính thời vụ). Vụ việc giàn khoan HD-981năm 2014, đến cả ủng hộ bằng lời nói Mạc-tư-khoa cũng không nốt. Mà Nga, qua sự kiện Crimea, từ ấy đến nay đang phải ve vuốt Bắc Kinh vả lại hiệp ước Nga-Việt năm xưa đã không còn nên bây giờ ai lo phận nấy. Vì thế cái sự ngày càng hung hăng của Trung Quốc có gì là lạ?

Một cuộc chiến với Trung Quốc sẽ là đại họa. Cần phải thấu hiểu rằng: cái thời lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều đã xa, xa lắm rồi. Thời chiến tranh hiện đại, vệ tinh quân sự luôn theo dõi sát sao từ trên không, rồi tên lửa tầm xa, lực lượng không quân chiến lược, tàu sân bay, tàu đổ bộ, tàu ngầm tối tân, vũ khí điện từ… sẽ không cho phép vua tôi nhà Trần thời nay tạm lánh về nơi hiểm yếu tính kế lâu dài như thời chống quân Nguyên được nữa.

Một khi thấm nhuần: giá trị của nghệ thuật chiến tranh lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy chí nhân thay cường bạo đã trở thành quá vãng thì nay cách bảo vệ dân tộc vẹn toàn là kiềm chế để không có cớ cho Trung Quốc sử dụng sức mạnh quân sự, như đã từng làm rất tốt vào năm 2014. Một lần nữa phải nhắc lại rằng: thời của châu chấu đá xe đã qua mất rồi. Ở Điện Biên Phủ, Việt Minh đã thắng Pháp. Nhưng điều này không đồng nghĩa với việc người Pháp cũng sẽ thua trận, nếu họ tập trung toàn bộ binh lực của quân đội Pháp đối đầu với Việt Minh. Tại Điện Biên Phủ Việt Minh đã thắng vì ở chiến trường này quân của tướng Giáp mạnh hơn binh lực Pháp đồn trú tại đây xét trên nhiều phương diện. Còn chuyện Việt Nam và Mỹ thì hơi khác. Điều này còn tùy thuộc góc nhìn. Người Mỹ không nghĩ rằng họ đã thua và đương nhiên họ có cái lý của mình. Có một sự thật mà nhiều người không muốn biết, đó là tình cảnh múa gậy trong bị của chính quyền Hoa Kỳ qua nhiều đời Tổng thống. Thật khó hình dung, dù lạc quan tếu cách mấy, là nếu xảy ra chiến tranh tổng lực giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thì người Mỹ sẽ thua!

Vì vậy nếu Bắc Kinh tiếp tục gây hấn rồi chiến sự xảy ra, kịch bản tệ nhất có thể phải chấp nhận là chỉ giữ được lãnh thổ và hòa bình trên đất liền, tạm thời lùi bước trước giấc mộng bá vương của gã khổng lồ tham lam. Bây giờ phải tính kế lâu dài theo kiểu khác.

Một câu hỏi không thể không đặt ra là: vì sao Trung Quốc dám hung hăng? Vì một Trung Quốc nuôi mộng bá quyền suốt mấy ngàn năm lịch sử đã trỗi dậy và lớn mạnh? Họ Tập cho rằng không cần phải ẩn mình chờ thời như đã từng. Đã đến lúc phục cái hận cuối triều Thanh! Hàng loạt chính sách mở rộng tầm ảnh hưởng, tạo vị thế mới cũng như khẳng định sức mạnh quân sự ở miền biên viễn và biển đảo dồn dập được tung ra. Biển Đông chỉ là một trong nhiều điểm nóng. Việt Nam cần phải làm gì trong chiến lược dài hạn?

Có ba nhóm việc Việt Nam cần phải làm hoặc góp sức làm:

Một: Giảm dần giao thương, hợp tác đầu tư, vay vốn… với Trung Quốc đến mức không đáng kể nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc về kinh tế, chính trị. Tìm kiếm các đối tác, thị trường khác nhằm thay thế và cân bằng lại. Kiên trì đấu tranh trên cả ba mặt trận: truyền thông, ngoại giao và pháp lý. Cung cấp cho người dân Trung Quốc những thông tin trung thực cần thiết, bóc trần sự dối trá trong sách báo Trung Quốc. Chúng ta cần phải thức tỉnh người dân Trung Quốc bằng cách chỉ ra rằng điều nghịch lý nước nhỏ chèn ép, gây sự, bắt nạt, khiêu khích, quấy rối nước lớn chỉ có trên miệng lưỡi của người phát ngôn và truyền thông của nước họ. Cần phải làm cho họ hiểu rằng trong hàng chục năm qua người dân Trung Quốc đã bị Bắc Kinh lợi dụng tinh thần dân tộc của họ, khai thác quá đà rồi vượt khỏi tầm kiểm soát và nay thì đã tới mức cực đoan! Điều này vô cùng nguy hiểm cho hòa bình khu vực và thế giới còn trong mắt nhân dân các nước khác tinh thần dân tộc cực đoan là hiện thân của sự lố bịch, không thể chấp nhận được. Khả năng bị cả thế giới bài xích là có thể xảy ra. Việc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế là phương án “nhất tiễn hạ song điêu”. Một mặt đây là lựa chọn phù hợp với thế và lực của một nước nhỏ, phù hợp với cơ sở pháp lý quốc tế và nhằm buộc Trung Quốc phải tôn trọng chủ quyền của Việt Nam thông qua con đường pháp lý, sau khi đấu tranh ngoại giao không đem lại kết quả. Mặt khác bằng cách kiện Trung Quốc chúng ta lôi kéo sự chú ý của người dân nước này, làm cho họ phải tự đặt câu hỏi: khi nào thì người ta buộc phải đòi công lý tại tòa? Từ đó người dân Trung Quốc sẽ tự tìm hiểu sự thật và vỡ vạc ra rằng: họ đã bị chính quyền lừa dối.

Hai: Chúng ta phải đi trước Trung Quốc trên tiến trình dân chủ hóa. Phải dứt khoát đoạn tuyệt hệ giá trị cũ phủ đầy son phấn và tìm đến hệ giá trị đích thực của thời đại. Từ đó xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia thực sự dân chủ, văn minh và giàu mạnh. Khi thiết lập xã hội mới điều tối quan trọng là phải tạo ra sức mạnh trí tuệ của dân tộc thông qua việc khơi dậy sức sáng tạo của từng cá nhân, khai thác tối đa năng lực đồng sáng tạo của các thành viên trong xã hội để cho trí tuệ của cả dân tộc bừng sáng. Ở thời của kinh tế tri thức, đây là điều quan yếu nhất. Hãy nhìn vào Israel để noi theo. Khi đất nước giàu mạnh, tính độc lập tự chủ được đảm bảo, năng lực đóng góp cho hoạt động duy trì hòa bình và trật tự thế giới được nâng cao.

Ba: Chúng ta cần chung tay cùng Hoa Kỳ và các quốc gia dân chủ khác thúc đẩy tiến trình dân chủ ở Trung quốc. Cần phải làm cho người nông dân Trung Quốc – lực lượng nòng cốt trong cách mạng giải phóng dân tộc hiểu rõ rằng họ đã bị chính quyền Bắc Kinh hy sinh quyền lợi, thậm chí quay lưng và đã phản bội, thực sự đã phản bội.

Với tiềm lực tài chính có sự đóng góp từ những đồng tiền đầy mồ hôi nước mắt của người dân, nhà nước Trung Quốc đầu tư ra nước ngoài trên khắp thế giới, cho vay, mua trái phiếu chính phủ Mỹ, đầu tư công ồ ạt gây lãng phí, thất thoát tiền bạc của nhân dân bởi nạn tham nhũng lan tràn, tăng khủng khiếp mức chi tiêu quốc phòng, mua sắm, chế tạo vũ khí, thay vì đầu tư vào các vùng nông thôn rộng lớn sâu trong đại lục để nâng cao đời sống cho hơn 900 triệu nông dân Trung Quốc sinh sống ở đây, tiến kịp vùng duyên hải. Những việc này có mục đích chính trị là chính, cố gây thanh thế, uy tín cho giới cầm quyền, phục vụ cho mộng bành trướng về lâu về dài.

Kế đến, cần phổ cập các giá trị của xã hội dân chủ, văn minh và tiến bộ nhằm giúp người dân nước này nhận thức lại những gì họ bị nhồi nhét từ bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh. Một khi hệ tư tưởng Mao-ít (hoặc đại loại như vậy) không còn hoặc ít có khả năng chi phối đời sống tinh thần của dân chúng, tiến trình dân chủ hóa có nhiều cơ hội để thành công.

Song song với việc thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa, có thể làm cho Trung Quốc không còn mạnh và lớn nữa (điều này sẽ làm cho tiến trình dân chủ ở đây thuận lợi hơn). Việc này chủ yếu trông cậy vào Mỹ và các nước đồng minh của Hoa Kỳ còn Việt Nam có vai trò không thật đáng kể.

Hơn ai hết, Hoa Kỳ hiểu rằng, ngoài họ, không nước nào đủ khả năng để có thể kiềm chế Trung Quốc. Không khó để hình dung thế giới sẽ ra sao nếu như Trung Quốc là số 1 về tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự.

Để Trung Quốc không còn mạnh Hoa Kỳ cùng các nước đồng minh cần phải chung tay thực thi các chính sách sau đây: Thứ nhất, ngăn chặn hoạt động ăn cắp sở hữu trí tuệ. Thứ hai, cấm triệt để việc thu nhận/tiếp nhận sinh viên, nghiên cứu sinh và các nhà khoa học của Trung Quốc tới Hoa Kỳ và Tây Âu học tập/ nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Thứ ba, cấm tuyệt đối việc bán các trang thiết bị công nghệ cao cho Trung Quốc, kể cả các trang thiết bị thế hệ cũ của Hoa Kỳ hay Tây Âu nhưng Trung Quốc vẫn chưa sản xuất được sản phẩm có các tính năng kỹ thuật tương đương nhằm tránh sao chép công nghệ. Thứ tư, cấm tuyệt đối việc các doanh nghiệp Trung Quốc mua cổ phần chi phối các doanh nghiệp công nghệ cao của Hoa Kỳ và Tây Âu. Thứ năm, chặn đứng việc ép buộc chuyển giao công nghệ đối với các doanh nghiệp của Hoa Kỳ và Tây Âu đầu tư sản xuất ở Trung Quốc. Thứ sáu, bằng mọi biện pháp có thể, buộc Trung Quốc thực thi thương mại công bằng.

Nếu không quyết liệt thực thi các biện pháp cấm cửa công nghệ như đã nêu ở trên thì không lâu nữa Trung Quốc sẽ vượt qua được cái ngưỡng sao chép và tiến tới làm chủ được công nghệ hiện đại, đứng vào hàng ngũ các nước dẫn đầu về khoa học công nghệ thì sẽ là nguy hiểm khôn cùng. Mà thực ra thì điều này đã hiển hiện ở một vài lĩnh vực hẹp, chẳng hạn như “trí tuệ nhân tạo (Al), robot, lưu trữ năng lượng, mạng di động thế hệ thứ năm (5G), hệ thống thông tin lượng tử và có thể cả công nghệ sinh học”**

Để Trung Quốc không còn lớn nữa người Mỹ cần nhóm lửa ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông, Mãn Châu Lý và có thể cả ở Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến. Tất cả những nơi có thể, nhằm đẩy mạnh phong trào ly khai và độc lập. Việt nam, khi đã là một nước dân chủ thực sự, cần tích cực hỗ trợ Hoa Kỳ trong vấn đề này. Có một điều cần phải nói thêm là: tiến trình ly khai và độc lập cũng sẽ giảm quyền lực của người tiêu dùng Trung Quốc nhờ vào việc xé nhỏ thị trường rộng lớn này.

Kết quả cuối cùng có thể là, người khổng lồ không còn mạnh, to lớn nữa và được chia thành các quốc gia dân chủ nhỏ hơn với cách hành xử văn minh.

Chắc hẳn đây là một quá trình không hề ngắn, một quá trình đi đến văn minh. Cả ta và kẻ hung hăng, ngang ngược, ngạo mạn, thủ đoạn, xảo quyệt, trơ trẽn… đều trở nên văn minh. Khi người ta thực sự văn minh thì một cách tự nhiên thói hung hăng, côn đồ, ức hiếp bắt nạt kẻ yếu sẽ không còn. Các tranh chấp lãnh thổ và biển đảo sẽ được phán xử tại tòa, thay vì bằng vũ lực như đã từng. Một kết cục nhân văn: các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa rồi các đảo như Gạc Ma, Ba Bình… thuộc quần đảo Trường Sa - khu vực đang tranh chấp giữa nhiều nước - lại châu về hợp phố trong hòa bình, nếu như Việt Nam chứng minh một cách thuyết phục trước tòa quốc tế rằng những hòn đảo này thực sự là của chúng ta.

* Thông tin này người viết có được đã quá lâu, rất tiếc nay không thể dẫn nguồn.

** Trích báo cáo của The Council on Foreign Relations, dẫn theo Vnexpress trong bài Trung Quốc sẽ vượt mặt Mỹ về công nghệ, ngày 30/9/2019.

Sài Gòn Tháng 5 năm 2020

XS
SM
MD
LG