Đường dẫn truy cập

Chuck Searcy, người Mỹ giúp rà phá 815.000 quả bom ở Việt Nam


Ông Chuck Searcy đã trở thành một nhân vật quen thuộc trong cộng đồng người nước ngoài ở Hà Nội, một người cao gầy, nói được tiếng Việt và dường như biết hầu hết mọi người.
Ông Chuck Searcy đã trở thành một nhân vật quen thuộc trong cộng đồng người nước ngoài ở Hà Nội, một người cao gầy, nói được tiếng Việt và dường như biết hầu hết mọi người.

Ông Seth Mydans sống ở Việt Nam ba năm trong thời kỳ chiến tranh và đã tường trình cho tờ New York Times từ giữa thập niên 90. Ông tường thuật câu chuyện sau đây với New York Times từ Hà Nội và Đông Hà:

Trong chuyến viếng thăm chiến trường Khe Sanh cũ, nơi xảy ra một trong những cuộc đối đầu đẫm máu nhất trong Chiến tranh Việt Nam, người duy nhất mà ông Chuck Searcy gặp trên cánh đồng rộng lớn, cằn cỗi là hai cậu bé dẫn ông đến một quả rốc-két chưa nổ nằm bên một con mương.

Một trong hai cậu bé tiến tới đá quả bom cho đến khi ông Searcy kêu lên: “Đừng, Dừng lại!”

Ông Searcy kể về khoảnh khắc đó vào năm 1992: “Đây là lần đầu tiên tôi gặp phải bom chưa nổ. Tôi không hề biết rằng mình sẽ cống hiến cả cuộc đời mình để loại bỏ chúng”.

Đây không phải là lần đầu tiên ông Searcy tới Việt Nam. Ông phục vụ với tư cách là một người lính ở đó vào năm 1968, cùng năm xảy ra trận Khe Sanh và ra đi với tâm trạng vỡ mộng.

Là một nhà phân tích tình báo của Quân đội Hoa Kỳ, ông có quyền truy cập vào đầy đủ các thông tin thô, từ số lượng kẻ thù thiệt mạng cho đến những tuyên bố phóng đại về đà tiến của Mỹ.

“Chúng tôi đã xem hầu hết mọi thứ,” ông nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây. “Và tôi thấy rằng những người bạn của chúng tôi ở quê nhà đã được cung cấp những thông tin không chỉ gây hiểu lầm mà còn là những lời nói dối có chủ ý.”

“Điều đó khiến chúng tôi, những thanh niên ngây thơ, bị sốc,” ông nói thêm, “và chúng tôi bắt đầu cảm thấy rằng hệ thống này đã hư hỏng.”

Khi chuyến công tác kéo dài một năm của ông kết thúc, ông Searcy nhận ra mình không chỉ nghi ngờ về cuộc chiến mà còn cả tính cách của chính mình.

“Đôi khi tôi thực sự tự hỏi liệu sự rụt rè hoặc từ chối đứng ra nói điều này là sai, liệu đây có phải là một thất bại về mặt đạo đức của tôi hay không,” ông nói. “Đó là nỗi lo lắng khiến tôi cảm thấy mình đã thất bại trong nhiệm vụ của một người Mỹ.”

Ý thức trách nhiệm đó đã thúc đẩy ông cống hiến cả cuộc đời mình để khắc phục một trong những di sản nguy hiểm nhất của chiến tranh: hàng triệu quả bom và mìn chưa nổ vẫn tiếp tục giết chết và làm bị thương người dân mỗi năm.

Hiện đã 79 tuổi và sống ở Hà Nội, ông Searcy có lẽ là cựu chiến binh Mỹ được người Việt Nam biết đến nhiều nhất, thường trả lời các cuộc phỏng vấn tại địa phương và đưa ra những tuyên bố nhấn mạnh quan điểm phản chiến của ông, đồng thời giúp điều chỉnh các chính sách của Mỹ trong việc giao tiếp với Việt Nam.

“Ông Chuck là một trong những người tiên phong trong số các cựu chiến binh trong việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước”, ông Hoàng Nam, một quan chức chính phủ cấp cao ở tỉnh Quảng Trị, người gặp ông Searcy khi vừa mới ra trường, cho biết.

Cùng nhau, hai người thành lập Dự án Renew, có trụ sở tại Quảng Trị, từ năm 2001 đã triển khai các đội rà phá bom mìn, dạy học sinh cách giữ an toàn, cung cấp chân tay giả và dạy nghề cho các nạn nhân.

Ông Searcy cho biết ông thường được hỏi điều gì thúc đẩy cam kết của ông đối với phúc lợi của Việt Nam thời hậu chiến.

Ông nói đó không phải là tội lỗi. Đúng hơn, đó là tinh thần trách nhiệm khi cố gắng khắc phục những thiệt hại mà đất nước mình đã gây ra.

Cụm từ mà ông đặc biệt yêu thích là một chỉ thị của Thủy quân lục chiến liên quan đến việc dọn sạch vỏ đạn kim loại đã qua sử dụng trên trường bắn: dọn sạch võ đạn của bạn.

Ông Searcy, theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen, đang dọn sạch số chất nổ chết người mà Mỹ để lại trên khắp Việt Nam.

Tỉnh Quảng Trị, nơi có Khe Sanh và nằm trên ranh giới với Đường mòn Hồ Chí Minh, nằm ngay dưới đường phân chia miền Nam và miền Bắc Việt Nam. Ông Searcy cho biết đây là khu vực bị ném bom nặng nề nhất ở Việt Nam.

“Điều đó thật vô nghĩa,” ông nói. “Họ cứ ném bom, ném bom và ném bom cho đến khi không còn mục tiêu nào. Điều đó thật vô nghĩa.”

Ông Searcy cho biết tổng cộng gần 8 triệu tấn bom đạn đã được thả xuống Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1975. Những quả bom không nổ đã trở thành mìn trên thực tế, mà theo ước tính của chính phủ Việt Nam đã gây ra 100.000 người chết và bị thương kể từ khi chiến tranh kết thúc.

Kể từ khi Dự án Renew bắt đầu hoạt động với sự hợp tác của Tổ chức Viện trợ của Nhân dân Na Uy - một tổ chức điều hành các hoạt động rà phá bom mìn ở hơn chục quốc gia - số thương vong ở Quảng Trị đã giảm từ hơn 70 vụ mỗi năm xuống zero vào năm 2019. Cùng với người Na Uy, Dự án Renew tuyển dụng 180 nhân viên rà phá bom mìn.

Ông Nam, đồng giám đốc của Renew cho biết, mục tiêu là đưa vấn đề vào tầm kiểm soát để mọi người có thể tiếp tục cuộc sống của mình mà không sợ hãi. Nhưng ông Searcy cho biết mỗi ngày, những người rà phá bom mìn của ông nhận được hai, ba hoặc bốn báo cáo về vật liệu nổ mới được phát hiện.

Trong ba năm qua, hai người đã thiệt mạng ở Quảng Trị: một người đàn ông đào sàn mới trong bếp và một cậu bé nhặt và ném bom chùm.

Ngoài ra, lũ lụt hàng năm làm mặt đất bị dịch chuyển, khiến việc tuyên bố khu vực nào đã được dọn sạch bom mìn một cách dứt khoát là không thể.

Ông Nam nói: “Không thể có một tỉnh, một quốc gia hoàn toàn không có bom đạn.”

Một nạn nhân là Hồ Văn Lai, 34 tuổi, hiện đang làm việc cho Renew, dạy học sinh cách nhận biết và tránh bom chưa nổ.

Cách đây 24 năm, ông còn là một đứa trẻ khi tình cờ nhìn thấy một quả bom chùm, ở đây được gọi là bom bi, ở bên đường. “Chúng tôi nghĩ chúng là đồ chơi để chơi,” ông nói. “Tôi tò mò. Tôi bắt đầu lấy đá đập nó. Tôi không nghe thấy tiếng nổ nhưng tôi nghe thấy tiếng bạn bè la hét và tôi cảm thấy nóng bừng trong người”.

Ông bị mất cả hai chân dưới đầu gối, một cánh tay phía trên khuỷu tay và thị lực ở một mắt.

Sau một năm làm nhà phân tích tình báo quân đội tại Việt Nam, ông Searcy kết thúc thời gian phục vụ trong quân đội ở Đức. Trở về nhà ở Athens, Georgia, vào năm 1970, ông nói: “Tôi rất tức giận và bối rối”.

Ông ghi tên học Đại học Georgia, nơi ông lấy bằng cử nhân về khoa học chính trị, ông gia nhập nhóm phản chiến Cựu chiến binh Việt Nam chống chiến tranh và bắt đầu công khai lên tiếng về quan điểm của mình.

Cha ông, người từng chiến đấu với quân Đức và bị cầm tù trong Thế chiến Thứ hai, rất tức giận.

Cha mẹ ông nói với ông: “Ba mẹ không biết con là ai nữa.” “Có chuyện gì đã xảy ra với con vậy? Họ có biến con thành một người Cộng sản không?

Nhưng như đã xảy ra với nhiều người Mỹ trong những năm đó, sự nghi ngờ của cha mẹ ông về chiến tranh dần tăng lên và quan điểm của họ thay đổi.

“Mẹ con và bố đã nói chuyện,” bố ông nói với ông một ngày sau đó, “và ba mẹ đi đến kết luận rằng chiến tranh là một điều tồi tệ, rằng con đã đúng còn ba mẹ đã sai.”

Ông và một đồng nghiệp đã thành lập tờ tuần báo The Athens Observer và điều hành nó trong hơn một thập niên. Ông Searcy sau đó tham gia chính trị, tham gia các chiến dịch chính trị và làm nhân viên ở Thượng viện Hoa Kỳ.

Năm 1992, cùng với một người bạn trong quân đội, ông trở lại Việt Nam “để xem đất nước thời bình trông như thế nào”.

Họ trải qua một tháng trên đường và nhận thấy một đất nước vẫn còn đau khổ, bị cắt viện trợ quốc tế bởi lệnh cấm vận của Mỹ và đang vật lộn trong cảnh nghèo đói dưới những hạn chế kinh tế theo học thuyết của Cộng sản.

“Chúng tôi rất ngạc nhiên trước sự chào đón nồng nhiệt của người dân Việt Nam, những người dường như đã tha thứ cho chúng tôi về những đau thương khủng khiếp mà chúng tôi gây ra trong chiến tranh”, ông Searcy viết trong hồi ký đăng trên Thời báo Việt Nam năm 2022. “Tôi nhận ra rồi tôi muốn quay lại và tìm cách nào đó để giúp đỡ người dân Việt Nam vượt qua cuộc chiến tranh bi thảm mà Mỹ đã gây ra.”

Cơ hội giúp đỡ đầu tiên của ông đến vào năm 1995 khi Quỹ Cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam yêu cầu ông thành lập một dự án nhân đạo để giúp đỡ trẻ em khuyết tật, người tàn tật và những người khác bị tàn tật vì bệnh bại liệt, bại não và các bệnh khác.

Khi ông Searcy nghe tin có bao nhiêu người vẫn đang thiệt mạng vì bom chưa nổ, ông nói, “tôi há hốc mồm”.

Điều này đã trở thành sứ mệnh của ông. Ông và tập đoàn Na Uy thành lập Renew với nửa triệu đô la tiền ban đầu từ các nhà tài trợ tư nhân.

Ông Searcy đã trở thành một nhân vật quen thuộc trong cộng đồng người nước ngoài ở Hà Nội, một người cao gầy, nói được tiếng Việt và dường như biết hầu hết mọi người.

Ông George Black, người kể câu chuyện của mình trong cuốn “The Long Reckoning: A Story of War, Peace and Redemption in Vietnam” đã viết: “Ông là người hòa đồng xã hội.”

Năm 2003, ông Searcy được trao tặng Huân chương Hữu nghị Quốc gia Việt Nam, giải thưởng cao quý nhất dành cho người nước ngoài có đóng góp cho sự thịnh vượng của đất nước.

Ông Searcy nói, trong hai thập niên hoạt động của Dự án Renew, 815.000 quả bom các loại đã được kích nổ hoặc phá hủy, bao gồm bom thả từ trên không, bom chùm, đạn pháo, các loại bẫy, lựu đạn và đạn súng cối.

Ông nói “Hãy tưởng tượng đi, 815.000. Chúa ơi.”

(Nguồn New York Times)

Diễn đàn

VOA Express

XS
SM
MD
LG