Bịnh gout

Thính giả tên K.T. hỏi:

Kính gởi Bác sĩ Hiền,

Tôi năm nay 53 tuổi, phái nam, gần nửa năm nay, đã 3 lần tôi luôn bị đau và sưng đỏ ở ngón chân cái bên chân phải.

Cơn đau kéo dài vài ngày. Đến khi hết đau,ngón chân vẫn luôn bị sưng và tím. Tôi muốn hỏi Bác sĩ, bệnh này có phải là bệnh“GOUT” hay không? Bệnh này có nguy hiểm và có thể chữa trị hết được không? Và xin nhờ Bác sĩ hướng dẫn cách ăn uống và điều trị.

Xin thành thật cám ơn Bác sĩ.”

Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời:

Your browser doesn’t support HTML5

Bịnh gout

Bịnh gout gây ra những cơn đau khớp cấp tính, thường là khớp xương ở gốc ngón chân cái, nối liền bàn chân và xương ngón chân (metatarsal phalangeal joint). Ngón chân sưng to, đỏ và nóng, và cơn đau có thể đánh thức bịnh nhân dậy lúc đang ngủ, đến mức tấm chăn đắp nhẹ đụng vào cũng làm đau đớn thêm. Các khớp xương khác của bàn chân, khớp cổ chân, cổ tay, bàn tay đều có thể bị đau. Khoảng 4­-12 giờ sau khi khởi đầu là lúc đau nhất. Sau đó đau dai dẳng có thể kéo dài vài ngày hay vài tuần. Đàn ông bị nhiều hơn phái nữ, tuy nhiên sau khi tắt kinh, phụ nữ dễ bị gout hơn.

Thời trung cổ ở Phương Tây, người ta cho rằng bịnh phong thấp sưng và đau các khớp xương là do chất độc từ máu nhỏ giọt vào các khớp , tiếp Pháp cổ “gote”, hiện nay là “goutte” có nghĩa là giọt nước. Điểm thú vị là quan niệm này hơi giống quan niện hiệm nay giải thích là uric acid đi từ máu vào đọng trong khớp. Purine là một chất có bình thường trong cơ thể chúng ta cũng như có nhiều trong một số thức ăn như steak thịt đỏ, các nội tạng thú vật (gan, thận), seafood. Những purine này lúc bị cơ thể chuyển hoá thì sinh ra chất uric acid tuần hoàn trong máu. Bình thường, uric acid sẽ được thận thải qua nước tiểu, tuy nhiên nếu cơ thể sản xuất uric acid nhiều quá, hay thận bài tiết ra uric acid ít quá, mức uric acid trong máu sẽ quá cao. Một số nước uống như rượu (nhất là bia), nước ngọt có chứa nhiều chất đường fructose (từ trái cây) cũng làm cho mức uric acid trong máu cao hơn. Nếu mức uric acid quá cao, các tinh thể urate đọng lại trong khớp xương và gây ra viêm khớp, gồm những triệu chứng sưng, đỏ và đau, là những triệu chứng của bịnh gout.

Bịnh gout bị những yếu tố di truyền ảnh hưởng. Trong 100 người có mức uric acid cao trong máu, 90% là do khả năng thận bài tiết uric acid bất bình thường, 10% còn lại là do cơ thể (phần lớn là gan) sản xuất quá nhiều uric acid.

Yếu tố cơ nguy và biện pháp phòng ngừa:

1) Những bịnh như bịnh mập, bịnh tim, bịnh thận, áp huyết cao, hội chứng chuyển hoá (metabolic syndrome; gồm bịnh mập nhiều mỡ bụng+ cao áp huyết+ lượng cholesterol “tốt” thấp + nhiều mỡ triglycerides trong máu).

2) Thuốc men: thuốc lợi tiểu loại thiazide; aspirin (vd aspirin liều thấp hay "baby aspirin" một số người lớn tuổi uống hàng ngày để ngừa bịnh tim mạch)

3) Nam giới nhiều hơn nữ giới. Phụ nữ sau khi tắt kinh mức uric acid cao hơn, gần bằng nam giới.

4) Yếu tố gia đình, di truyền

5) Chấn thương, hậu giải phẫu.

6) Corn syrup được dùng phổ biến hiện nay trong công nghệ thực phẩm chứa rất nhiều fructose (High Fructose Corn Syrup, HFCS), kể cả formula trẻ em, bánh kẹo, vì corn syrup ngọt hơn và rẻ hơn đường mía. Fructose được chứng minh liên hệ với mức uric acid trong máu cũng như áp huyết tăng lên đáng kể ở các thanh niên dùng nước uống ngọt - như nước trái cây, nước sinh tố nhiều. Tóm lại , tránh ăn và uống đồ ngọt.

7) Nên uống nước đầy đủ để có đủ lượng nước tiểu đẩy các tinh thể uric acid ra ngoài, tránh sự thành hình các sạn trong thận. Sạn có thể làm hư hại thận, làm nghẽn đường thoát của nước tiểu, gây ra điều kiện thuận tiện cho nhiễm trùng đường tiểu; kết quả là giảm cơ năng thận, làm việc lọc uric acid kém đi, và lại làm bịnh gout nặng hơn nữa. Nói chung ở Mỹ, người ta khuyên nên uống 64 0z nước/ 24 giờ, tương đương với chừng 2 lít nước, hay 8 ly nước (x8 oz).

Biến chứng: gout không chữa có thể tái hồi (recur), urate lâu ngày đọng dưới da làm những chỗ sưng gọi là tophi nổi lên ở bàn chân, bàn tay, khuỷu tay, gân Achille sau gót chân, lâu ngày các tophi có thể đau đớn. Urate có thể đọng trong thận và đường tiểu thành sạn.

Bác sĩ định bịnh căn cứ trên các triệu chứng, có thể thử nghiệm mức uric acid và creatinine trong máu; rút nước từ khớp xương (arthrocentesis) để tìm các tinh thể urate hình kim; chụp X quang; MRI; CT scan; siêu âm khớp và tophi nếu cần. Tuy nhiên, người có mức uric acid cao có thể không đau nhiều, trong lúc người viêm khớp nhiều cũng có thể có mức uric acid không cao.

Chữa trị:

1) Thuốc giảm viêm không phải corticoid (NSAIDS) như ibuprofen (Advil, Motrin), naproxen (Aleve); mạnh hơn và cần toa như indomethacin, celecoxib (Celebrex). Dùng những thuốc này phải cẩn thận có thể là xót hay chảy máu đường tiêu hoá (bao tử, ruột).

2) Colchicine lúc đau cấp tính, sau đó liều thấp hơn để chặn các cơn đau trở lại. Phản ứng phụ: ói mửa, tiêu chảy.

3) Corticoid: nếu không dùng được các thuốc trên.

Những người bị nhiều lần/ năm có thể cần dùng

1) Thuốc giúp cơ thể bớt sản xuất ra uric acid (allopurinol; phản ứng phụ nổi mẫn ngoài da, giảm tế bào máu)

2) Thuốc giúp thận thải uric acid nhiều hơn (probenecid). Phản ứng phụ: nổi mẫn, đau bao tử, sạn thận.

Bịnh gút là bịnh của những người ăn thịt uống rượu nhiều, gồm những nhân vật nổi tiếng như Alexander the Great, Genghis Khan (Thành Cát Tư Hãn, TK12-13), Leonardo da Vinci. Cho đến thế kỷ thứ 19, hầu như không ai bị gút ở Nhật, hiện nay có chừng 16 triệu /127 triệu người Nhật bị gout (có triệu chứng) hoặc máu chứa quá nhiều uric acid (nhưng không có triệu chứng). Đàn ông nhật cứ 100 người đã có 30 người máu có quá nhiều uric acid (hyperuricemia). Phụ nữ Nhật, tỷ lệ chỉ chừng 1/10 so với nam giới. Có lẽ do người Nhật uống rượu và ăn thịt bò nhiều hơn trước. Những thay đổi gần đây ở Việt Nam và Trung Hoa có lẽ cũng sẽ dẩn đến hậu quả tương tự.

Ngừa gout bằng giới hạn một số thức ăn uống.

a) Các thức ăn chứa nhiều purine nên tránh hoặc giảm:

1) Một số cá: cá trích, cá mòi, cá chép, cá tuyết, cá hồi và cá cơm (herring, sardines, carp, cod, haddock, salmon, trout, tuna, and anchovies).

2) Các thức uống có rượu như rượu van (wines), rượu mạnh, nhất là bia ; uống một serving bia mỗi ngày làm cơ nguy tăng 50%

3) Nội tạng, nhất là gan thú vật (heo bò). Thịt bò nhiều purine. Thịt gà thì được.

4) Ở những nơi nền kinh tế dựa trên đánh bắt cá, bịnh gout thường xảy ra nhiều hơn vì dân chúng ăn tôm cá nhiều hơn. "Shellfish" chứa một lượng purin vừa phải, nhưng tiêu thụ thường xuyên có thể đẩy mức uric acid lên cao gây ra cơn gút. Shellfish có nhiều purine bao gồm tôm hùm, sò điệp, trai và cua. Cá cũng có hàm lượng purine cao. Nên ăn uống đa dạng, không giới hạn trong các protein từ hải sản.

b)

1) Cà phê có thể gây tiểu nhiều và làm cơ nguy uric acid đọng nhiều hơn vào khớp.

2) Nước ngọt có gaz (hơi)(soda). Chứa fructose và cafein. Từ 1977-1996 bịnh gout tăng gấp đôi có lẽ vì các loại nước ngọt này.

3) Các món ăn chiên, rán nhiều mỡ.

Một số bịnh nhân dùng thuốc có chứa chất glucosamine để chữa bịnh xương khớp nhưng lo ngại không biết thuốc có là ủic acid cao lên hay không. Glucosamine là một loại "bổ sung dinh dưỡng" (nutritional supplement) bán không cần toa rất thịnh hành để "cải thiện sức khoẻ sụn" trong các khớp xương. Vì chưa có bằng chứng dứt khoát là chất này chữa được các bịnh viêm khớp. ở Mỹ FDA không cho phép quảng cáo chất này là "dược phẩm" (drug) dùng để trị liệu. Dạng có lẽ hữu hiệu hất là glucosamine sulfate, có thể chung với "nutritional supplement" khác như chondroitin sulfate.

Glucosamine được sản xuất từ vỏ của shellfish gồm những con vật có "bộ xương ngoài" (exoskeleton ) như tôm, cua, tôm hùm, sò hến. Exoskeleton chứa nhiều chất chitin, từ đó trích ra glucosamine bằng thuỷ phân. Tuy nhiên, glucosamine được chế biến từ exoskeleton chứ không phải từ thịt các con vật shellfish này nên không chứa purine. Do đó glucosamine không ảnh hưởng đến gout mà cũng không chữa được bịnh này.

Chúc bịnh nhân may mắn.

References:

1) Về tác dụng của đường , và nhất là fructose trên biến dưỡng của cơ thể; fructose dễ gây ra bịnh mập hơn các đường khác.

Bray G. A.: Energy and Fructose From Beverages Sweetened With Sugar or High-Fructose Corn Syrup Pose a Health Risk for Some People.

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3649102/

2) Agnès Basseville and Susan E. Bates Gout, genetics and ABC transporters.

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3206739/

3) Hakoda M.

Recent trends in hyperuricemia and gout in Japan.

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/25237240

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Ngày 2 tháng 5 năm 2018

Quý vị có thể xem và nghe lại các bài giải đáp trên mạng Internet ở địa chỉ voatiengviet.com

Quý vị muốn được giải đáp các thắc mắc về những vấn đề y học thường thức, xin gọi đến số (202) 205-7890, hoặc E-mail đến địa chỉ <vietnamese@voanews.com>.