Tại LHQ, Trung Quốc cảnh báo về sự ‘mở rộng chiến trường’ trong cuộc chiến ở Ukraine

Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị phát biểu tại kỳ họp thứ 79 của Đại hội đồng Liên hợp quốc tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York, Mỹ, hôm 28/9/2024.

Ba ngày trước khi chính phủ cộng sản Trung Quốc tròn 75 tuổi, Bộ trưởng Ngoại giao nước này đã cảnh báo các nhà lãnh đạo đồng cấp hôm 28/9 về sự "mở rộng chiến trường" trong cuộc chiến của Nga với Ukraine và cho biết chính phủ Bắc Kinh vẫn cam kết ngoại giao con thoi cũng như nỗ lực thúc đẩy xung đột đi đến hồi kết.

"Ưu tiên hàng đầu là cam kết không mở rộng chiến trường. ... Trung Quốc cam kết đóng vai trò xây dựng", ông Vương Nghị nói. Ông cảnh báo các quốc gia khác "đổ thêm dầu vào lửa hoặc lợi dụng tình hình để đạt được lợi ích ích kỷ", một ám chỉ dường như nhắm đến Hoa Kỳ.

Bài phát biểu của ông Vương dường như không có gì mới mẻ, giống như thông lệ gần đây của Trung Quốc tại cuộc họp thường niên của các nhà lãnh đạo Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (LHQ). Trên thực tế, xếp của ông Vương, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, đã không tham gia cuộc họp của các nhà lãnh đạo kể từ năm 2021 – và sau đó chỉ tham dự trực tuyến trong thời gian xảy ra đại dịch. Ông Tập đã không tham dự trực tiếp trong một vài năm.

Hôm 27/9, bên lề hội nghị, Trung Quốc và Brazil đã tìm cách xây dựng nhiệt huyết cho kế hoạch hòa bình của họ đối với Ukraine. Họ cho biết khoảng một chục quốc gia đã ký vào một tuyên bố nói rằng họ "lưu ý" kế hoạch 6 điểm. Kế hoạch này kêu gọi một hội nghị hòa bình với cả Ukraine và Nga cũng như không mở rộng chiến trường, trong số các điều khoản khác.

Các quan chức Ukraine lạnh nhạt với đề xuất này, nhưng các quốc gia đã ký hiện đang thành lập một nhóm "bạn hữu vì hòa bình" cho các đại sứ của họ tại LHQ để duy trì cuộc đối thoại giữa họ. Từ Algeria đến Zambia, các thành viên chủ yếu là các quốc gia châu Phi hoặc Mỹ Latin. Ông Vương lưu ý rằng nhóm này không ban hành chính sách của từng quốc gia.

Chủ quyền từ lâu đã là chủ đề thảo luận của Trung Quốc

Trung Quốc là đồng minh của Nga, một quốc gia bị Tổng thư ký António Guterres, Mỹ và nhiều quốc gia trên thế giới cáo buộc vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc. Moscow khẳng định cái gọi là "hoạt động quân sự đặc biệt" của họ là để tự vệ, vốn là điều được cho phép trong Hiến chương LHQ.

Sự kiên trì và kiên quyết của Trung Quốc trong việc tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác không chỉ là nền tảng của chính sách đối ngoại mà còn là bản chất nền tảng của chính phủ một quốc gia vốn luôn đấu tranh để duy trì quyền kiểm soát ở các vùng biên giới của mình – từ Tân Cương và Tây Tạng ở cực tây đến Hong Kong và Đài Loan ngoài khơi bờ biển phía đông.

Chính phủ hiện tại của Trung Quốc được thành lập vào ngày 1/10/1949, khi được nhà cách mạng cộng sản chuyển thành lãnh đạo Mao Trạch Đông tuyên bố tại Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh sau một cuộc nội chiến với chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Những người theo chủ nghĩa Quốc dân đảng bắt đầu cai trị Đài Loan như một hòn đảo tự trị và thông lệ đó vẫn tiếp tục cho đến ngày nay – và là điều mà Trung Quốc bác bỏ cũng như khẳng định chỉ là tình huống tạm thời đối với lãnh thổ mà họ coi là thuộc chủ quyền của mình.

"Không có chuyện hai Trung Quốc hay một Trung Quốc - một Đài Loan. Về vấn đề này không có vùng xám", ông Vương nói. "Đài Loan cuối cùng sẽ trở về vòng tay của Đất mẹ. Đây là xu hướng áp đảo của lịch sử mà không ai có thể ngăn cản được".

Trung Hoa Dân Quốc – chính quyền tại Đài Loan do Tưởng Giới Thạch thành lập – là thành viên của LHQ cho đến năm 1971, khi tổ chức liên chính phủ lớn nhất thế giới này công nhận chính quyền Bắc Kinh. Kể từ đó, Bắc Kinh đã nỗ lực cô lập Đài Loan bằng cách khen thưởng các quốc gia công nhận họ về mặt ngoại giao và đôi khi trừng phạt những quốc gia không làm như vậy. Tại mọi cuộc họp cấp cao của Đại hội đồng, các nhà lãnh đạo của các quốc gia rải rác ủng hộ Đài Loan – thường là các nước nhỏ – đều than thở trên diễn đàn về việc chính quyền hòn đảo này bị cộng đồng quốc tế xa lánh.

Các chủ đề đa dạng trong bài phát biểu của ông Vương

Ông Vương cũng cân nhắc đến lập trường của Trung Quốc về tình hình căng thẳng gia tăng ở Trung Đông và tình hình trên Bán đảo Triều Tiên, trong đó Bán đảo Triều Tiên là những ưu tiên chiến lược quan trọng của Bắc Kinh.

Trung Đông: Khi nói rằng "vấn đề Palestine là vết thương lớn nhất trong lương tâm con người", ông Vương nhắc lại rằng Trung Quốc ủng hộ tư cách nhà nước và tư cách thành viên đầy đủ trong LHQ của Palestine cũng như nhấn mạnh rằng giải pháp hai nhà nước là "con đường cơ bản để thoát ra". Bộ trưởng Trung Quốc không nhắc đến tên Israel hoặc trực tiếp nhắc đến cuộc chiến, vốn bắt đầu khi các chiến binh Hamas tràn qua biên giới Gaza vào Israel, giết chết hàng trăm người và bắt hàng chục người làm con tin.

Bán đảo Triều Tiên: Theo như chính sách của Trung Quốc, ông Vương bày tỏ sự ủng hộ đối với quá trình chuyển đổi “từ hiệp định đình chiến sang cơ chế hòa bình”. Về cơ bản, hai miền Triều Tiên vẫn trong tình trạng chiến tranh kể từ cuộc xung đột năm 1950-53, vốn đã chia cắt bán đảo thành hai miền Nam và Bắc. Trung Quốc từ lâu đã là bên ủng hộ Triều Tiên trong khi Hoa Kỳ là đồng minh thân cận của Hàn Quốc. Ông Vương đưa ra lời cảnh báo ngầm về những bên khác đang cố gắng giật dây ở Đông Á: “Chúng tôi kiên quyết phản đối sự can thiệp của các quốc gia bên ngoài khu vực”.

Bán đảo Triều Tiên đã chia tách thành Hàn Quốc tư bản do Mỹ hỗ trợ và Triều Tiên xã hội chủ nghĩa do Liên Xô hậu thuẫn sau khi được giải phóng khỏi 35 năm cai trị của Nhật Bản vào cuối Thế chiến II năm 1945. Hai miền Triều Tiên có biên giới được củng cố nghiêm ngặt nhất thế giới.

Nhân quyền: Ông Vương nhắc lại những quan điểm thường thấy của Trung Quốc, nói rằng “không quốc gia nào được xâm phạm công việc nội bộ của quốc gia khác nhân danh nhân quyền” và nhấn mạnh rằng Trung Quốc đã chọn con đường riêng của mình, vốn là con đường hợp pháp như những con đường khác.

“Chúng tôi đã tìm ra con đường phát triển nhân quyền phù hợp với điều kiện quốc gia của Trung Quốc,” ông Vương nói.

Các quốc gia khác và các nhóm nhân quyền quốc tế từ lâu đã lên án cách đối xử của Bắc Kinh đối với người Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ ở vùng cực tây Tân Cương và – gần đây hơn – đối với các nhà hoạt động ở “khu vực hành chính đặc biệt” Hong Kong.